Bà Huyện Thanh Quan: Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

Giáo sư Dương Quảng Hàm đã từng ca ngợi tài thơ của Bà Huyện Thanh Quang:

“Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tỏ tình, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện”

Tuy tuổi còn nhỏ nhưng cô đã thể hiện tài năng không thua gì nam nhi. Thơ của cô tràn ngập âm nhạc và hội họa, ngôn ngữ thông minh và những cảnh và vật rất trữ tình. Thơ của cô thể hiện phong cảnh thiên nhiên, tình yêu quê hương và cảm xúc u sầu của cô trước một thế giới đang thay đổi.

1. Tiểu sử về cuộc đời của Bà Huyện Thanh Quan

Nguyễn Thị Hinh quê ở huyện phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.

Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825)  và à vợ của Lưu Nghị (1804-1847), hiệu là Ái Lan, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), Lỗ Quế (1804-1847). Ông đỗ cử nhân (thứ 2 Minh Mạng) năm 1821 và từng là tri huyện Thanh Quan (nay là một phần huyện Đông Hưng và huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Sau đó ông bị giáng chức  Bát phẩm Thư lại bộ Hình. Chồng bà làm quan trải đến chức Viên ngoại lang bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).

Bà Huyện Thanh Quan
Tiểu sử về cuộc đời của Bà Huyện Thanh Quan

Dưới triều vua Ming Mạng, bà được mời vào kinh và đảm nhận chức vụ Cung Trung Giáo Tập, dạy dỗ các công chúa và phi tần của mình.

Khoảng một tháng sau cái chết của chồng, cô ấy nghỉ việc với lý do có bốn đứa con và trở về Nghi Tàm, nơi cô ấy sống phần đời còn lại của mình.

Cuộc đời chính xác của bà không rõ, nhưng theo nhiều tài liệu, bà sinh năm 1805 và mất năm 1848 ở tuổi 43. Mộ của bà ở Hồ Tây (Hà Nội) nhưng sau đó đã bị đào bới. Gió gây sạt lở không dấu vết. Cô là một trong những ca sĩ tài năng hiếm có ngày xưa, hiện còn sáu bài thơ Đường luật.

2. Sự nghiệp văn chương của Bà Huyện Thanh Quan

Hồn thơ của bà có lẽ không chỉ khởi nguồn từ gia đình trí thức mà hơn hết, từ vùng đất quê hương của bà, làng Nghi Tàm. Đây chính là nơi công chúa Từ Hoa, con gái của vua Thần Tông nhà Lý thời thế kỷ XII, đã xây dựng trại dạy cung nữ trồng dâu và nuôi tằm. Bà huyện Thanh quan không sáng tác nhiều, và số tác phẩm bà để lại cho đời sau rất ít ỏi, hầu hết được viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật. Hiện nay, chúng ta đã tìm thấy một số bài thơ sau đây:

  • Thăng Long thành hoài cổ
  • Qua chùa Trấn Bắc
  • Qua Đèo Ngang
  • Chiều hôm nhớ nhà
  • Tức cảnh chiều thu
  • Cảnh đền Trấn Võ
  • Cảnh Hương sơn.

Dù số lượng tác phẩm sáng tác của bà không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm đều gây được tiếng vang lớn trong dòng thi đàn Việt Nam. Chúng thể hiện tấm lòng nhớ quê hương sâu sắc, tình yêu đất nước mãnh liệt, và một tâm hồn bi thương khôn nguôi. Bà là một tài năng thi phú đặc biệt, mà không phải ai cũng có thể sánh ngang.

Bà Huyện Thanh Quan
Tác phẩm “qua đèo ngang”

Nổi bật nhất trong sự nghiệp văn chương của nhà thơ có thể kể đến tác phẩm “qua đèo ngang”, một bức tranh tả cảnh và tình đẹp nao lòng, vừa diễn tả được thiên nhiên heo hút, vừa truyền tải được tâm sự u buồn trước thời cuộc đang đảo điên nhiều biến động.

3. Phong cách nghệ thuật của Bà Huyện Thanh Quan

Thơ đường luật thường bị gò bó, hạn chế cảm xúc bởi các quy tắc, điển tích cổ, trong khi thơ chữ Nôm đôi khi lại thiếu sâu sắc để diễn tả đầy đủ sức mạnh của ngôn từ. Bà huyện Thanh quan là một trong số ít nhà thơ có thể kết hợp cả hai yếu tố trên. Không ngạc nhiên khi giáo sư Phạm Thế Ngũ từng nhận định:

“Trước và sau bà, đã có vô số người viết thơ đường, nhưng chắc chắn không ai vượt qua được Nữ Sĩ Thanh Quan”.

Bà Huyện Thanh Quan
Phong cách nghệ thuật của Bà Huyện Thanh Quan

Các tác phẩm của bà vừa có tính cổ kính cần có, vừa mang sự gần gũi giản dị. Cuộc đời của bà Huyện Thanh Quan chặt chẽ với những biến động của đất nước, và tâm trạng cũng như hồn thơ của bà đậm chất thương nước thương dân, hoài niệm về quá khứ tươi đẹp. Thơ của bà giống như lời kể của một người, gợi cảm xúc và cảm nhận, vừa gần gũi vừa sâu lắng, mang trong mình nỗi buồn của sự cô đơn.

Giáo sư Nguyễn Lộc đã nhận xét:

“Thơ của bà thường viết về thiên nhiên, đa phần là vào thời điểm hoàng hôn, tạo ra cảm giác lặng lẽ và buồn bã. Cảnh vật mà bà mô tả trong những bài thơ giống như những bức tranh thủy mặc, nhấp nhô… Hơn nữa, thực tế thì cảnh trong thơ bà không chỉ là cảnh vật, mà là tình cảm. Tình cảm của bà thường là sự nhớ thương đắng đo, hướng về quá khứ tươi đẹp đã không trở lại được. Chính vì vậy, bà được gọi là nhà thơ hoài cổ. Thơ của bà còn thu hút sự chú ý vì một lý do khác, đó là nghệ thuật tinh vi đến tột cùng. Trong đó, quy tắc tuân thủ một cách chặt chẽ mà không tạo ra cảm giác gò bó, cứng nhắc. Câu thơ của bà trang nhã, từ ngữ được chọn lọc và chăm chút công phu…”

Phong cách nghệ thuật chủ yếu của bà huyện Thanh Quan là niềm hoài cổ về một thời đại rực rỡ, nhưng cũng thể hiện sự đau khổ không nguôi của đất nước, phản ánh phẩm chất của một người phụ nữ thanh lịch, tao nhã và tài năng vượt trội. Những bài thơ chữ Nôm của bà thường tả cảnh vật, tình yêu, nhưng bất kể bài nào cũng đẹp và cho thấy bà là người có lòng trung hiếu, thanh tao, và có kiến thức sâu rộng. Văn phong của bà rất trang nhã, tinh tế.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm có những nhà thơ nữ do sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Bà Huyện Thanh Quan là một trong những thi sĩ nữ hiếm hoi, sở hữu tài năng không thua kém bất kỳ ai. Thơ của bà thể hiện những tình cảm cao cả như tình yêu đất nước, lòng thương dân, và bà là gương mẫu về lòng trung hiếu mà thế hệ sau cần học tập.

Leave a Comment