Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng – trữ tình nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Cuộc đời của ông không mấy thuận lợi trong thi cử, trải qua 8 khoa thi đều hỏng thế nhưng ông vẫn lựa chọn kiên trì đến cùng.
Sự nghiệp văn học của nhà thơ Trần Tế Xương đã để lại cho đất nước nhiều tác phẩm có giá trị đến ngày nay. Để tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả Trần Tế Xương, hãy cùng Thichriviu.vn khám phá!
Nội dung chính
1. Tiểu sử về nhà thơ Trần Tế Xương
Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương (1870-1907), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh, là một nhà thơ người Việt Nam.
Trần Tế Xương sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức 10 tháng 8 âm lịch) tại số nhà 247 phố Hàng Nâu, thành phố Nam Định, với tên gọi ban đầu là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõi nho gia, ban đầu là họ Phạm, nhưng sau này đổi thành họ Trần do nhà Trần lập công lớn được phong quốc tính. Ông nội của Trần Tế Xương tên là Trần Duy Năng. Cha của ông, cụ Trần Duy Nhuận, cũng là một nhà nho, không đỗ thi nhiều khoa, sau này làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định và có 9 người con, trong đó có 6 trai và 3 gái. Tú Xương là con trưởng.

Ông đã bắt đầu học sớm và sớm được biết đến với sự thông minh. Khi mới 10 tuổi, khi có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách đã viết cho cậu bé Uyên một câu đối:”Đình tiền ngũ sắc hoa” (trước sân có hoa năm sắc), Uyên ngay lập tức chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đáp lại: “Lung trung bách thanh điểu” (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe thấy đáp tấm tắc khen ngợi, nhưng lại thở dài “đời thằng bé lại lẩn quẩn như chim nhốt trong lồng”. Ông học chữ Hán từ một giáo viên tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở làng Thành Thị, nơi Trần Tế Xương sinh sống.
Cuộc đời ngắn ngủi của ông chỉ kéo dài 37 năm và nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước khi ông ra đời 3 năm, 6 tỉnh Nam Kỳ đã bị mất hoàn toàn cho Pháp. Khi Tú Xương lên 3, Bắc Kỳ, trong đó có Nam Định, bị tấn công lần thứ nhất.
Khi ông 12 tuổi, Bắc Kỳ và Nam Định lại bị tấn công lần thứ hai và mất đi. Hiệp ước Harmand vào năm 1883 và hiệp ước Patenôtre vào năm 1884 đã thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. Các phong trào kháng chiến chống Pháp đã diễn ra sôi nổi, nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh lịch sử đó.
Tú Xương kết hôn khi mới 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.
Ông đã tham gia thi cử từ khi 17 tuổi, trong khoa Bính Tuất (1886). Một số tài liệu khác ghi nhầm là khoa Ất Dậu (1885).
2. Phong cách sáng tác của Trần Tế Xương
Mặc dù cuộc đời cầm bút của ông không quá dài, nhưng số lượng tác phẩm mà Trần Tế Xương để lại cho văn học dân tộc thực sự đáng nể. Ông đã sáng tác hơn 150 bài thơ thuộc các thể loại khác nhau.
Hầu hết nội dung trong tác phẩm của ông đều xoay quanh chủ đề về khoa cử, nho học và hình ảnh một nền nho học đang suy thoái, cùng với cảnh nghèo khó của dân chúng trong bối cảnh đất nước.
Ngoài ra, ông còn nổi tiếng với ngòi bút trào phúng, khéo léo phê phán chế độ phong kiến suy tàn, sự tàn ác của bọn thực dân Pháp, quan lại và tay sai phục vụ giặc. Ông luôn đứng về phía người dân nghèo.

Đặc biệt, trong sự nghiệp cầm bút của mình, ông cũng khai thác đề tài viết về vợ mình để bày tỏ tình yêu thương sâu sắc đối với người phụ nữ đã hy sinh cao cả, chịu đựng và chăm sóc gia đình cùng chồng.
Một bài thơ nổi tiếng của ông mang tên “Thương vợ” đã được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Không chỉ sáng tác thơ để bày tỏ tình yêu thương đối với người phụ nữ ở bên cạnh, Tế Xương còn muốn sử dụng hình ảnh đó để ca ngợi vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, luôn kiên nhẫn và quan tâm đến gia đình và chồng con.
3. Những tác phẩm tiêu biểu của Nhà thơ Tú Xương

- Văn thơ Trần Tế Xương – nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
- Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ – nhà xuất bản Văn hóa
- Thơ văn Trần Tế Xương – nhà xuất bản Văn học (1970)
- Tú Xương thi tập do nhà sách Phúc Chí – 95 Hàng Bồ, Hà Nội
- Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương)
- Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán (1931 – sau có tái bản)
4. Nhận định
Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ.
Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm.
Tản Đà khi còn sống “trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương” (Xuân Diệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ “vèo” trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông: Vèo trông lá rụng đầy sân. Nguyễn Công Hoan cũng kể vậy.
Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam.
Cảm ơn bạn đọc đã luôn theo dõi và ủng hộ Thích Rì Viu trong thời gian qua, hy vọng sẽ nhận được sự ủng hộ của các bạn trong các chuyên mục khá.