Cuộc đời xuất chúng của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, giảng sư, nhà văn, thi sĩ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động phổ hội và người chuyển động cho hòa bình. Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, vào ngày 11 tháng 10 năm 1926 (Bính Dần), và xuất gia theo Thiền tông lúc mới 16 tuổi, trở nên một nhà sư vào năm 1949. Pháp hiệu “Thích” được dùng bởi những nhà sư Việt Nam, tức là họ là một phần của dòng tu Thích Ca.

1. Hành trình tu tập của Thích Nhất Hạnh

1.1. Tiểu sử

Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, nhà văn, thi sĩ và nhà hoạt động hòa bình người Việt Nam. Ông là người sáng lập tông phái Làng Mai và có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo phương Tây.

Giáo sư Thích Nhất Hạnh sinh ra tại Huế và xuất gia vào năm 16 tuổi, trở thành nhà sư từ năm 1949. Ông đã bị lưu đày vì phản đối chiến tranh trong những năm 1960. Sau đó, ông sống lưu vong ở Pháp hơn 40 năm và thành lập nhiều tu viện và trung tâm tu tập. Ý tưởng “Phật giáo dấn thân” là một phần quan trọng trong triết lý của ông.

Năm 2005, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam và sống tại Tổ Đình trong khoảng Hiếu, Huế cho đến khi qua đời vào năm 2022, thọ 95 tuổi.

Thích Nhất Hạnh đã xúc tiến hòa bình và sinh thái sâu, khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng không bạo lực và nhấn mạnh ý thức về sự liên kết ngẫu nhiên. Ông cũng sáng lập phong trào không giết mổ động vật và hạn chế việc tiêu thụ thịt như một phương tiện không bạo lực. Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó có hơn 70 cuốn bằng tiếng Anh.

Thích Nhất Hạnh sinh ngày 10 tháng 11 năm 1926 tại Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Ông có tên khai sinh là Nguyễn Đình Lang, sau đổi thành Nguyễn Xuân Bảo. Ông là con cháu thứ 15 của dòng họ Nguyễn Đình, có tổ tiên là thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu, tác giả của truyện “Lục Vân Tiên”. Cha ông là Nguyễn Đình Phúc, làm quan cho triều đình nhà Nguyễn thời Pháp thuộc, đảm đương công việc di dân lập ấp. Mẹ ông là bà Thị Dĩ, người làng Hà Trung, tỉnh Quảng Trị.

nhà văn Thích Nhất Hạnh
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, nhà văn, thi sĩ và nhà hoạt động hòa bình người Việt Nam

Nhất Hạnh là con út trong tổng số 6 người con, có ba anh trai lớn, 1 chị gái và 1 em trai út sinh sau không lâu. Ông cùng gia đình sống tại nhà của ông bà nội cho đến khi ông lên 1 tuổi.

Khi ông 4 tuổi, gia đình ông di cư đến vùng núi ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa để khai phá rừng để canh tác cho nông dân nghèo. 1 năm sau đó, cả gia đình chuyển về thị xã Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa sống cùng cha mẹ. Ông học tiểu học ở đó và nghỉ hè thì đi học thêm ở những lớp tư tại nhà. Ông được ghi danh vào trường học với tên Nguyễn Đình Lang.

Khoảng năm 7 hoặc 8 tuổi, ông cảm thấy yên bình khi nhìn thấy bức tranh Đức Phật ngồi thiền trên cỏ. Trong một chuyến du lịch của trường học, ông nhìn thấy những nhà tu hành trên núi, ngồi thiền yên lặng giống như Đức Phật, và ông ao ước trở thành như họ. Ông đã quyết định sẽ trở thành một nhà sư khi lên 12 tuổi, và được cha mẹ chấp thuận.

Vào năm 16 tuổi, ông xuất gia tại chùa Từ Hiếu gần Huế. Tại đây, ông tu học dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật và nhận pháp danh Trừng Quang Đãng, pháp tự Phùng Xuân, pháp hiệu Nhất Hạnh, theo pháp đời thứ 42 của thiền phái Lâm Tế thuộc nhánh Từ Hiếu đời thứ 8, cái Liễu Quán.

Ông tu tập tại chùa Từ Hiếu trong ba năm với vai trò một chú tiểu, tu học theo môn phái Đại thừa của Phật giáo và học nhiều ngôn ngữ bao gồm tiếng Trung, tiếng Anh và tiếng Pháp.

Sau đó, ông chính thức trở thành một nhà sư vào năm 1949 và được xác nhận là lãnh đạo tinh thần của chùa Từ Hiếu cùng các tu viện liên quan khác.

Ông ghi danh học tại Học viện Phật giáo Báo Quốc, nhưng sau đó ông nhận ra sự thiếu vắng kiến thức liên quan đến triết học, văn chương và ngoại ngữ tại trường này. Ông rời trường và đến Sài Gòn, tu học tại chùa Ấn Quang vào năm 1951.

Thích Nhất Hạnh kết hợp kiến thức từ nhiều môn phái thiền và các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa, triết học Phật giáo Đại thừa, và các phát kiến trong lĩnh vực tâm lý học hiện đại phương Tây để tạo ra phương pháp tiếp cận tiên tiến của mình trong thiền.

Năm 1955, ông trở lại Huế và làm biên tập viên cho tờ báo Phật Giáo Việt Nam. Tuy nhiên, sau đó tờ báo bị đình chỉ do không được các nhà sư cao cấp ủng hộ những bài viết của ông.

Thích Nhất Hạnh cho rằng việc ông hòa hợp các quan điểm và tư tưởng Phật giáo tại miền Nam Việt Nam là nguyên nhân dẫn tới việc tờ báo bị đình chỉ. Sau đó, ông sống trong rừng Đại Lao gần Đà Lạt và tiếp tục nghiên cứu về Phật giáo.

Trong khoảng năm 1959 đến 1961, ông giảng dạy nhiều khóa tu ngắn về Phật giáo tại nhiều ngôi chùa tại Sài Gòn, bao gồm cả chùa Xá Lợi.

Tuy nhiên, các lớp học của ông bị hủy bỏ và ông bị từ chối giảng dạy do các quan điểm của mình. Ông nhận được học bổng Fulbright vào năm 1960 và sang Hoa Kỳ học về tôn giáo tại Đại học Princeton vào năm 1961.

Sau đó, ông được bổ nhiệm làm giảng viên về Phật giáo tại Đại học Columbia và cũng là giảng viên tại Đại học Cornell. Trong thời gian này, ông nghiên cứu và nâng cao trình độ các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung và tiếng Phạn.

1.2 Trước năm 1975

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh ra vào thập niên 1960 tại Sài Gòn và sáng lập Trường giới trẻ Phụng sự phố hội (SYSS). Từng doanh nghiệp này đã đóng góp thiện nguyện trong việc xây dựng lại những làng bị bỏ bom, xây trường học và bệnh xá, cũng như hỗ trợ gia đình vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam.

Ngoài ra, ông còn đồng sáng lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản Lá Bối, hai tổ chức tập trung nghiên cứu về Tu học Phật pháp, văn hóa và tiếng nói Việt Nam. Ông còn dạy giáo lý Phật giáo và Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita) tại Viện Đại học Vạn Hạnh.

Thích Nhất Hạnh thường xuyên sang Mỹ diễn thuyết và giảng dạy về Phật giáo tại các trường đại học danh tiếng như Princeton và Cornell. Ông cũng đã nhận bằng thạc sĩ chuyên ngành tôn giáo tại Đại học Columbia vào năm 1963 và từ đó đã dạy tại trường này. Nhờ những hoạt động tuyên truyền và giảng dạy, ông được Martin Luther King, Jr. mời tham gia vào cuộc phản đối công khai Chiến tranh Việt Nam và truyền bá thông điệp hòa bình tới mọi người và hàng ngũ. Năm 1967, ông được đề cử cho Giải Nobel Hòa bình và đã dẫn đầu phái đoàn Phật giáo trong cuộc đàm phán hòa bình tại Paris.

Vào năm 1966, ông thành lập dòng tu Tiếp Hiện (“The Order of Interbeing”) và thiết lập nhiều trung tâm thiền viện trên khắp thế giới, trong đó có Tu viện Làng Mai tại Pháp là nơi ông sinh sống. Ông tiếp tục du hành và tổ chức các khóa tu thiền. Sau năm 1973, khi Hiệp định Paris được ký kết, ông không được phép quay về Việt Nam và buộc phải ở lại Pháp cho đến năm 2017.

Năm 2005, ông được phép quay trở lại Việt Nam lần đầu tiên sau nhiều năm. Thích Nhất Hạnh tiếp tục hoạt động cho mục tiêu hòa bình, lãnh đạo các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, thuyết giảng khích lệ hòa giải và giải quyết tranh chấp bằng bất bạo động. Ông cũng tham gia diễu hành hòa bình tại Los Angeles vào năm 2005.

1.3. Sau năm 1975

Từ ngày 12/1 đến 11/4 năm 2005, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam, thuyết giảng và xuất bản sách tiếng Việt. Cùng với 100 nâng cao ni và 90 thành viên cái tu, ông đi khắp đất nước và quay về chùa Từ Hiếu ở Huế.

Năm 2007, ông thành lập cộng phái bộ quốc tế Làng Mai, quay về Việt Nam tổ chức khóa tu, pháp thoại và gặp gỡ nâng cao ni. Ông và doanh nghiệp ba trai đàn chẩn tế nguyện cầu và giải trừ oan khổ cho những người chịu hậu quả của chiến tranh.

Trong vụ tranh chấp tại Tu viện Bát Nhã, Thích Nhất Hạnh từ chối kích động làm vụ việc trở nên rắc rối, ông dạy cho các tu sinh cách kiềm chế cơn giận và mang đến thấu hiểu và tình yêu thương.

Năm 2015, ông Võ Văn Ái đã nói về lý do ông trở về Việt Nam sau năm 1975 và việc có mặt trên thị trường doanh nghiệp Phật giáo thứ ba, nhưng không đề cập rõ hơn về viện dẫn cụ thể.

Ngày 29/8/2017, Thích Nhất Hạnh trở lại Việt Nam lần đầu tiên sau năm 2008. Ngày 30/10/2018, ông xin cư ngụ tại Tổ đình Từ Hiếu để tịnh dưỡng cho đến khi viên tịch.

Thích Nhất Hạnh viên tịch vào ngày 22/1/2022. Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã gửi lời chia buồn. Tang lễ kéo dài trong 7 ngày và hỏa táng diễn ra tại Vườn địa đàng Huế. Tro cốt được để tại Tổ đình Từ Hiếu theo di nguyện của thiền sư.

2. Các tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

2.1. Thơ

  • Tiếng địch chiều thu, Long Giang, Sài Gòn, 1949.
  • Ánh xuân vàng (bút danh: Hoàng Hoa), Long Giang, Sài Gòn, 1950.
  • Thơ ngụ ngôn (bút danh: Hoàng Hoa), Đuốc Tuệ, Hà Nội, 1950.
  • Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, Lá Bối, Sài Gòn, 1965.
  • Tiếng đập cánh loài chim lớn, Lá Bối, Sài Gòn, 1967.
  • Bông hồng cài áo, Sài Gòn, 1962.
  • Vietnam Poems, Unicorn Press, Santa Barbara (Hoa Kỳ), 1967.
  • The Cry of Vietnam, Unicorn Press, Santa Barbara (Hoa Kỳ), 1968.
  • De Schreeuw van Vietnam, Uitgeverij Ten Have, Baarn, Holland, 1970.
  • Zen Poems, Unicorn Press, Greensboro (Hoa Kỳ), 1976.

3.2. Truyện

  • Tình người (tập truyện; bút danh: Tâm Quán), 1951; Lá Bối 1973
  • Nẻo về của ý (bút ký), Lá Bối 1967; An Tiêm 1972
  • Am mây ngủ (truyện ngoại sử), Lá Bối.
  • Bưởi (tập truyện ngắn), Lá Bối.
  • Tố (tập truyện), Lá Bối.
  • Văn Lang dị sử (truyện cổ tích, bút danh Nguyễn Lang), Lá Bối; An Tiêm 1975
  • Đường xưa mây trắng, Lá Bối; Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2007.
  • Truyện Kiều dịch ra văn xuôi, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn
  • Truyện tranh Coconut – Monk, xuất bản ngày 25 tháng 1 năm 2006 bởi Nhà xuất bản Plum Blossom Books.
  • Con gà đẻ trứng vàng, 2018

3.3. Khảo luận

  • Đông phương luận lý học – Hương Quê 1950
  • Vấn đề nhận thức trong Duy Thức học – Lá Bối 1969
  • Tương lai văn hóa Việt Nam – Lá Bối.
  • Tương lai Thiền học Việt Nam -Lá Bối.
  • Việt Nam Phật giáo sử luận (bút danh Nguyễn Lang), 3 tập, tập 1 – Lá Bối 1974, 2 tập sau xuất bản ở nước ngoài sau 1975
  • Thả một bè lau – Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn 2008.
  • ….

3.4. Khác

  • Gia đình tin Phật – Đuốc Tuệ 1952
  • Bông hồng cài áo – viết vào mùa Vu lan 1962; Lá Bối xuất bản lần 2, 1965
  • Đạo Phật đi vào cuộc đời – Lá Bối 1964
  • Đạo Phật ngày nay – Lá Bối 1965
  • Nói với tuổi hai mươi – Lá Bối 1966, 1972
  • Phật giáo Việt Nam và hướng đi nhân bản đích thực – (bút danh Trần Thạc Đức), Lá Bối 1967
  • Đạo Phật hiện đại hóa – Lá Bối 1965, 1968
  • Đạo Phật ngày mai – Lá Bối 1970
  • Nẻo vào thiền học – Lá Bối 1971
  • Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngàyViện Hóa Đạo xuất bản 1973
  • Tuổi trẻ tình yêu lý tưởng – Lá Bối
  • Kiều và văn nghệ đứt ruột – Lá Bối, USA, 1994
  • The Miracle of Mindfulness: A Manual on Meditation, Beacon Press, 1999, ISBN 0-8070-1239-4 (Vietnamese: Phép lạ của sự tỉnh thức)
  • Phép lạ của sự tỉnh thứ – Nhà xuất bản Tôn giáo
  • Đi như một dòng sông
  • An lạc từng bước chân
  • Trái tim của Bụt – Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
  • Hạnh phúc: mộng và thực – Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2009
  • Kim Cương: Gươm báu cắt đứt phiền não – Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2009
  • Giận – Nhà xuất bản Thanh niên, 2009
  • Tĩnh lặng – Nhà xuất bản Thế giới 2018
  • Không diệt không sinh đừng sợ hãi – Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2019
  • Từng bước nở hoa sen – Nhà xuất bản Văn hoá – Văn nghệ TP HCM, 2018

Xem thêm: Sách hay của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

4. Những câu nói của thiền sư Thích Nhất Hạnh giúp chúng ta chiêm nghiệm về cuộc sống

Nhà thờ Thích Nhất Hạnh
Những câu nói của thiền sư Thích Nhất Hạnh giúp chúng ta chiêm nghiệm về cuộc sống
  1. Sự thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà tuyệt vời nhất mà bạn có thể dành cho họ. Thấu hiểu chính là bộc lộ tình ái thương.
  2. Niềm vui thỉnh thoảng mang đến nụ cười. Nhưng cũng có những lúc, chính nụ cười là nguyên cớ của niềm vui.
  3. Lúc kể “Tôi yêu bạn”, ý nghĩa thực thụ là “Tôi muốn đem lại cho bạn sự an lành và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước hết bạn phải trở nên người với các điều ấy.
  4. Thường thì mọi người mong muốn các điều phi thường khi đi trên mặt nước hay bay trong không khí. Nhưng theo tôi, điều phi thường đích thực chẳng hề là đi trên mặt nước hay trong không khí, mà là bước đi trên mặt đất. Mỗi ngày chúng ta đều tham dự vào một cuộc sống kỳ diệu mà không thể nhận ra: bầu trời xanh, những đám mây trắng, những loại lá xanh, và màu đen từ đôi mắt tò mò của một đứa trẻ – đôi mắt của chính chúng ta. Rất nhiều điều là các điều kỳ diệu.
  5. Một người tức giận là người chẳng thể khám phá và giải quyết nỗi đau trong lòng mình. Họ là nạn nhân trước tiên của nỗi đau đó, và bạn là người thứ hai. Khi bạn hiểu điều này, lòng từ bi sẽ trỗi dậy và sự tức giận sẽ tan biến. Đừng trừng trị họ, hãy đề cập hoặc làm gì ấy để giảm bớt nỗi đau.
  6. Hãy cười, hãy thở và hãy đi từ trong khoảng. Vì bạn đang sống, mọi thứ đều sở hữu thể xảy ra.
  7. Hôm nay khi tôi thức dậy, tôi mỉm cười. Còn 24 giờ nữa trước mắt tôi. Tôi quyết định sống trọn vẹn trong từng giây phút và nhìn nhận phần nhiều chúng sinh mang lòng trong khoảng bi.
  8. Cuộc sống chỉ tồn tại trong giây khắc ngày nay. Cảm giác đến và đi như các đám mây trôi trên bầu trời trong gió. Ý thức về hơi thở là nơi tôi tìm sự yên ủi.
  9. Hy vọng là quan trọng vì nó khiến cho giây khắc ngày nay trở thành dễ chịu hơn. Nếu chúng ta tin rằng mai sau sẽ phải chăng hơn, chúng ta sở hữu thể chịu chấp nhận cảnh tranh ngày hôm nay.
  10. Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi ta đang phấn khích, ta không thật sự bình yên. Hạnh phúc thực thụ dựa trên sự tự chấp nhận và sự hài lòng có hiện tại.
  11. Điều quan trọng không phải là mục tiêu cuối cùng mà chúng ta đặt ra, mà là hành trình chúng ta trải qua để đạt được mục tiêu ấy.
  12. Không mang gì làm cho minh bạch một trái tim như tình ái thương và sự săn sóc. Khi chúng ta đối xử có người khác có lòng từ bi, chúng ta tạo ra một nguồn năng lượng tích cực không chỉ cho họ mà còn cho chính mình.
  13. Cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng, nhưng chúng ta sở hữu thể luôn đối mặt với nó bằng kiên nhẫn và sự nhất quyết.
  14. Thỉnh thoảng, chúng ta cần phải buông bỏ những thứ không còn phục vụ cho sự phát triển và hạnh phúc của chúng ta. Đó là lúc chúng ta để tạo không gian cho những điều mới tới.
  15. Sự thu giãn không nằm trong việc vô tư điều mà là trong việc thưởng thức những điều có sẵn.
  16. Đừng chờ đợi người khác thay đổi để bạn hạnh phúc. Hãy tự tạo ra hạnh phúc của riêng mình và chia sẻ nó với người khác.
  17. Hãy nhớ rằng bạn không thể kiểm soát mọi thứ tiếp xúc với. Nhưng bạn sở hữu thể kiểm soát cách bạn phản ứng và đối mặt với chúng.
  18. Thành công không chỉ dựa trên tài năng, mà còn dựa trên sự kiên nhẫn và sự cố gắng không ngừng.
  19. Mỗi ngày là một thời cơ mới để bạn diễn tả ái tình và lòng biết ơn đối với cuộc sống.
  20. Thỉnh thoảng, chúng ta cần phải giới hạn và tìm thấy sự thăng hoa trong bản thân để tiếp tục hành trình của mình.
  21. Đừng đánh mất niềm tin vào bản thân. Bạn có khả năng vượt qua mọi thách thức và đạt được những thành công mà bạn mong muốn.
  22. Hãy sống có lòng biết ơn với những điều nhỏ bé trong cuộc sống. Sự hưởng thụ những khoảnh khắc đơn giản có thể mang lại niềm vui lớn.

Những suy nghĩ này có tính chất cảm tính và triết lý tư nhân, và chúng có thể khác nhau đối với từng người. Hãy vận dụng những suy nghĩ này vào cuộc sống của bạn theo cách thức mà bạn cảm thấy phù hợp và mang lại sự bằng lòng và hạnh phúc cho bạn.

5. Vì sao thiền sư Thích Nhất Hạnh không trở về Việt Nam sau gần 40 năm?

Lý do chính là do Thích Nhất Hạnh đã phản đối chiến tranh Việt Nam và thúc đẩy vận động hòa bình. Ông được xem là một người theo đuổi tư tưởng không bạo lực và quyền tự do. Điều này đã khiến chính quyền và cộng sản coi ông là một mối đe dọa đối với quyền lực của họ và từ chối cho ông quay trở lại Việt Nam trong thời gian dài.

thiền sư Thích Nhất Hạnh
Vì sao thiền sư Thích Nhất Hạnh không trở về Việt Nam sau gần 40 năm?

Thích Nhất Hạnh đã bị xem là một nhà sư với ảnh hưởng to lớn và được tôn trọng trên toàn cầu. Sự lừng danh và tầm ảnh hưởng của ông đã làm cho chính quyền cộng sản lo ngại về sự lan truyền của tư tưởng phi chính phủ và những quan niệm phản đối của ông. Đó là lý do vì sao ông bị từ chối quay trở lại quê hương trong một thời kì dài.

Cuối cùng, vào năm 2005, sau nhiều cố gắng và áp lực từ cộng đồng quốc tế và người dân Việt Nam, Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn của ông đã được chính quyền Việt Nam cho phép trở về quê hương. Đây là một bước quan trọng trong việc tái thiết mối quan hệ giữa Thích Nhất Hạnh và chính quyền Việt Nam sau nhiều năm xa cách và tranh cãi.

5.1. Ra đi không hẹn ngày trở về

Thích Nhất Hạnh đã trải qua rộng rãi năm xa rời quê hương do chính quyền Việt Nam cấm ông trở về. Ông bị coi là một nhà sư mang tư tưởng và hoạt động chính trị phản đối chính quyền cộng sản, và việc này đã khiến cho ông bị từ chối nhập cảnh và trở về Việt Nam.

Dù bị cấm trở về quê hương, Thích Nhất Hạnh không dừng lan tỏa thông điệp về hòa bình và tình ái thương trên toàn cầu. Ông đã có mặt ở thiền viện Plum Village tại Pháp và trở thành một giảng sư, tác giả và nhà hoạt động hòa bình quốc tế được tôn trọng.

Sự cấm trở về của Thích Nhất Hạnh đã gắn kết ông với cộng đồng quốc tế và trở thành một biểu tượng của sự phản đối chính trị và kiếm tìm hòa bình.

5.2. Bị cho là “biệt kích văn hóa”

Sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Thích Nhất Hạnh và nhiều nhà văn, thi sĩ, nhà báo khác ở miền Nam bị chính quyền mới kiểm soát nghiêm ngặt. Ông bị coi là một trong các “biệt kích văn hóa” và tư tưởng của ông bị chỉ trích là chống kháng chiến và chống cộng sản.

Trong cuốn sách “Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên trận mạc văn hóa – tư tưởng”, ông bị đội ngũ tác giả chỉ trích là gây nguy hiểm cho kháng chiến và cản trở người dân đánh đuổi giặc Mỹ. Những tác giả kém chất lượng cho rằng ông không còn là một Phật tử chân chính và việc mất ông không tác động đáng kể tới tập thể Phật tử.

Ngoài việc bị chỉ trích và cấm xuất bản, Thích Nhất Hạnh còn tham dự cứu chiếc thuyền nhân trước nhất chạy khỏi Việt Nam. Ông đã thành công trong việc vận động được sự giúp đỡ tại Hội nghị Á châu về tôn giáo và Hòa bình tại Singapore, nhưng sau đó ông bị cấm khỏi Công trình cứu vớt thuyền nhân do nhiều tranh chấp.

Số đông sự cấm kỵ và chỉ trích này đã khiến cho Thích Nhất Hạnh không thể trở về Việt Nam và ông tiếp tục hoạt động và quảng bá thông điệp về hòa bình trên thế giới.

5.3. Gian truân trong hành trình trở về

Năm 1982, sau khi thành lập Làng Mai, một trung tâm thiền Phật giáo nằm ở miền Tây Nam Pháp, Thích Nhất Hạnh tập trung vào việc phát triển thực hành chánh niệm và mang thông điệp này lan tỏa gần hơn với công chúng phương Tây.

Vào cuối thập niên 1980, ông trở nên nổi tiếng về việc thực hiện chánh niệm ở Mỹ và châu Âu. Dưới vai trò là thiền sư, ông giúp mọi người tự giải thoát khỏi nỗi đau khổ của chính mình và đồng thời lãnh đạo và phát triển tăng đoàn ngày càng đông đảo.

Năm 1997, ông bắt đầu cuộc hành trình nhằm trở về quê hương. Cuộc hành trình này đã thu hút sự quan tâm của nhiều chính trị gia từ nhiều quốc gia gửi thư kêu gọi chính quyền Việt Nam cho phép ông trở về. Đồng thời, Mỹ và Việt Nam đã bước vào giai đoạn bình thường hóa quan hệ ngoại giao trong vòng 2 năm.

Tuy nhiên, dù cố gắng vượt qua các trở ngại, ông không thành công trong việc trở về quê hương. Chính quyền yêu cầu ông chỉ có thể trở về dưới danh nghĩa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một doanh nghiệp do nhà nước lập ra để kiểm soát Phật giáo vào năm 1981.

Năm 1999, ông và tăng đoàn được mời đến Trung Quốc để giảng dạy và sách của ông được chấp thuận xuất bản tại đây. Dù các tác phẩm của ông đã được xuất bản hơn một triệu bản ở nước ngoài, chính quyền Việt Nam vẫn cấm nhiều tác phẩm và băng đĩa giảng dạy về Phật giáo của ông.

Cuối năm 1999, thiền sư Thích Nhất Hạnh công khai đề xuất chính quyền Việt Nam cho ông được trở về quê hương. Ông tuyên bố rằng việc có trở về hay không không ảnh hưởng đến ông, mà là người dân Việt Nam cần sự hiện diện của ông để đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ. Tuy nhiên, nỗ lực này cũng không được chính quyền Việt Nam đáp ứng.

Cuối cùng, vào năm 2005, sau nhiều năm cố gắng, Thích Nhất Hạnh được phép trở về Việt Nam theo cách mà ông mong muốn. Cuộc trở về của ông đã giúp Việt Nam cải thiện tự do tín ngưỡng và đem lại những lợi ích đáng kể. Tuy nhiên, sau đó không lâu, ông và tăng đoàn của mình bị đuổi khỏi Việt Nam vì các sự kiện tại chùa Bát Nhã vào năm 2009.

Chính quyền đã giữ vững thái độ chính trị thống nhất đối với Thích Nhất Hạnh và các nhà sư khối Ấn quang ngay sau ngày Sài Gòn sụp đổ. Dù các nhà sư này đều có thân gốc Việt nhưng không được chào đón trở về nước sau ngày 30/4/1975 và bị cấm ngặt trong việc hồi hương.

Dường như đối với chính quyền, những gì Thích Nhất Hạnh và các nhà sư khối Ấn quang làm không quan trọng bằng cách mà chính quyền đánh giá về họ hoặc việc họ mang lại lợi ích gì cho chính quyền. Khi bị cho là vi phạm nguyên tắc cốt lõi của chế độ, chính quyền không chọn lựa thái độ rộng lượng, dù đó có là nhà tu hành được toàn cầu trọng vọng đi nữa.

Cảm ơn bạn đã dõi theo những chia sẻ về cuộc đời, sự nghiệp của thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng những tác phẩm nổi tiếng của ông đã để lại cho nhân loại. Bạn có thể đón đọc thêm các tác phẩm của vị thiền sư này tại chuyên mục Review Sách của Thích Rì Viu.

Leave a Comment